Lịch sử Trống

Trống trận thời Tây Sơn

Trống là nhạc cụ xuất hiện sớm nhất, từ những lúc còn sơ khai, người xưa đã biết làm trống để tạo nên âm thanh có nhịp điệu đầu tiên trong lịch sử, trống ngày xưa chỉ là một cái thùng rỗng và được phủ lớp da cứng và căng để tạo âm thanh.

Trống được làm từ da cá sấu được tìm thấy ở Trung Quốc, khoảng giai đoạn 5500–2350 TCN. Trong các ghi chép, trống được dùng trong các nghi lễ để tạo không khí thần thánh.[3]

Trống đồng Đông Sơn được chế tác từ văn hóa Đông Sơn thời đại đồ đồng ở phía Bắc Việt Nam, bao gồm cả trống Ngọc Lũ I được trang trí tỉ mỉ hơn.

Trống luôn được sử dụng trong các lễ hội của các dân tộc thiểu số và dân Việt Nam dùng trống để khích lệ quân lính trước khi ra trận cũng như huấn luyện binh. [cần dẫn nguồn]

Trống nói

Trống được dùng như một công cụ truyền tin vượt qua những khoảng cách xa. Tại châu Phi, các trống nói mô phỏng các âm thanh con người phát ra. Trong lịch sử Sri Lanka trống đã được sử dụng để liên lạc giữa chính quyền và người dân, với một lịch sử trải dài hơn 2500 năm.

Trống dùng trong quân sự

Thời cổ đại người Trung Quốc sử dụng trống tàigǔ để động viên quân đội, giúp tạo nhịp hành quân và chỉ đạo binh lính. Ví dụ, trong một cuộc chiến tranh giữa Qi và Lu năm 684 trước Công nguyên, tác dụng của trống cổ vũ tinh thần người lính đã thay đổi kết quả của một trận đánh lớn.

Quân đoàn của lính bộ binh đánh thuê Thụy Sĩ cũng sử dụng trống. Họ đã sử dụng một phiên bản đầu của trống snare treo trên vai phải của người lính bằng dây đeo khi chơi với một tay. Tương tự trong Nội chiến Anh trống buộc dây thừng sẽ do các quân lính cấp thấp mang đi để chuyển lệnh của các sĩ quan cấp cao, tránh tiếng ồn của trận chiến đấu. Trống được treo trên vai của tay trống và thường chơi với hai dùi trống. Các đơn vị lính khác nhau sẽ có nhịp đập trống khác nhau riêng biệt. Vào giữa thế kỷ 19, quân đội Scotland bắt đầu kết hợp các nhóm chuyên chơi trống vào Quân đoàn Highland của họ.[4]

Trong chiến tranh thời tiền Columbo, các quốc gia Aztec đã sử dụng trống để gửi tín hiệu đến các chiến binh đang chiến đấu. Từ cho trống được tạm dịch là huehuetl.[5]

Rig Veda, một trong những tôn giáo lâu đời nhất ở kinh thế giới, chứa một số tài liệu tham khảo để sử dụng Dundhubi (trống dùng trong chiến tranh). Bộ lạc Arya tiến vào trận theo nhịp của trống này và tụng bài thánh ca có trong Sách VI của kinh Veda và Atharva Veda. Tên của bài thánh ca đó gọi là "Nhịp trống của trận chiến".